Đất rừng phòng hộ, rừng sản xuất có được chuyển nhượng?
Có thể chuyển nhượng đất rừng phòng hộ và đất rừng sản xuất. Tuy nhiên, trong trường hợp chuyển nhượng cho hộ gia đình hoặc cá nhân, quyền sử dụng đất sẽ được chuyển nhượng với điều kiện.
Tóm lược các vấn đề nêu ra:
Xin vui lòng tư vấn giúp em trong trường hợp sau: Vào năm 2003, gia đình ông A nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (QSD đất) với diện tích 160.000m2. Ban đầu, mục đích sử dụng đất là đất rừng tự nhiên phòng hộ. Tuy nhiên, vào năm 2012, UBND tỉnh đã quy hoạch lại và đổi mục đích sử dụng đất trên thành đất rừng tự nhiên sản xuất. Vào tháng 9/2016, ông A đã chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất đó cho ông B, người làm việc và cư trú tại một xã khác và là bộ đội biên phòng. UBND xã đã xác nhận việc chuyển nhượng đất thông qua Hợp đồng chuyển nhượng QSD đất giữa hai bên. Văn phòng Đăng ký Quyền sử dụng đất của huyện cũng đã điều chỉnh sổ đỏ để sang tên cho ông B. Tuy nhiên, trên sổ đỏ vẫn ghi rõ mục đích sử dụng đất là đất rừng tự nhiên phòng hộ và chưa được cấp đổi thành đất rừng tự nhiên sản xuất. Ông B đã đóng đầy đủ thuế thu nhập cá nhân và lệ phí trước bạ.
Ông B đã thuê người để phá 29.000m2 đất rừng phòng hộ đầu nguồn. Lực lượng Kiểm lâm đã lập biên bản đình chỉ hành vi hủy hoại rừng và đưa ra ý kiến rằng UBND xã và Văn phòng ĐKQSD đất của huyện đã xác nhận hợp đồng chuyển nhượng đất không đúng quy định. Điều này là sai vì hiện tại chưa có văn bản nào cho phép chuyển nhượng đất rừng tự nhiên phòng hộ (đầu nguồn) và rừng tự nhiên sản xuất. Kiểm lâm lập luận rằng hộ gia đình được nhà nước giao đất để bảo vệ rừng phòng hộ đầu nguồn và đã được trả tiền dịch vụ bảo vệ rừng hàng năm cho diện tích đất đó.
Theo quy định tại Điều 191, 192 Luật đất đai 2013, chỉ hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất ở và đất sản xuất nông nghiệp trong khu vực rừng phòng hộ mới được chuyển nhượng hoặc tặng quyền sử dụng đất. Điều này đồng nghĩa với việc chỉ có thể chuyển nhượng đất ở và đất sản xuất nông nghiệp trong khu vực rừng phòng hộ, không phải chuyển nhượng đất Rừng phòng hộ.
Điều 32 Nghị định số 23/2006/NĐ-CP ngày 3/3/2006 của Chính phủ về thi hành Luật Bảo vệ và phát triển rừng chỉ quy định về việc chuyển đổi rừng phòng hộ và không quy định về chuyển nhượng rừng sản xuất tự nhiên. Vì vậy, em muốn hỏi luật sư về việc chuyển nhượng đất rừng tự nhiên phòng hộ và đất rừng tự nhiên sản xuất có được phép không? UBND xã và Văn phòng ĐKQSD đất của huyện có thể cho phép ông A chuyển nhượng đất cho ông B hay không? Nếu không được, thì phải điều chỉnh như thế nào? Trách nhiệm của các lực lượng Kiểm lâm được xử lý như thế nào? Em xin chân thành cảm ơn luật sư!
Luật sư tư vấn đã.
Để được chuyển nhượng, chuyển đổi rừng, theo quy định Điều 32 của Nghị định 23/2006/NĐ-CP thi hành Luật Bảo vệ và phát triển rừng, cần tuân thủ các điều kiện sau đây:
Điều 32. Chủ rừng là những hộ gia đình hoặc cá nhân.
Chủ rừng có thể chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê, cho thuê lại, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn, để thừa kế quyền sử dụng rừng và quyền sở hữu rừng sản xuất. Điều này áp dụng cho rừng trồng và các trường hợp sau đây:
1. Về sự thay đổi.
A) Được đổi quyền sử dụng rừng phòng hộ do chính phủ giao.
B) Trường hợp hộ gia đình và cá nhân đã nhận chuyển nhượng, nhận tặng hoặc nhận thừa kế quyền sử dụng rừng và quyền sở hữu rừng sản xuất từ một chủ rừng khác, những quyền này sẽ được chuyển đổi sang quyền sử dụng và sở hữu rừng trồng hợp pháp. Đối với trường hợp nhận chuyển đổi, quyền này chỉ có thể chuyển đổi cho hộ gia đình và cá nhân khác trong cùng xã, phường hoặc thị trấn.
2. Về việc chuyển nhượng:
A) Rừng sản xuất được chuyển nhượng gồm rừng trồng do nhà nước giao và rừng trồng bằng vốn ngân sách nhà nước đầu tư trên đất Nhà nước giao hoặc cho thuê để trồng rừng nhưng phải trả lại giá trị đã đầu tư của Nhà nước.
B) Chủ rừng tự đầu tư tiền và trồng cây trên đất được Nhà nước chuyển quyền sở hữu hoặc cho thuê.
3. Về tặng cho:
Rừng trồng Nhà nước được tặng cho Nhà nước và cộng đồng dân cư thôn rừng sản xuất, hoặc là rừng trồng trên đất Nhà nước giao đất hoặc cho thuê.
4. Về việc cho thuê lại rừng, được phép cho thuê rừng sản xuất là các khu rừng trồng do Nhà nước quản lý hoặc Nhà nước cho phép thuê. Tuy nhiên, thời gian cho thuê và cho thuê lại rừng không được vượt quá thời hạn quy định trong quyết định của Nhà nước về việc giao đất, cho thuê đất và cho thuê rừng.
5. Về tài sản thế chấp, đảm bảo, đóng góp vốn:
A) Được thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị rừng sản xuất là rừng trồng được Nhà nước ủy quyền.
B) Chủ rừng đầu tư có thể thế chấp, bảo lãnh hoặc góp vốn bằng giá trị tăng thêm của rừng trồng Nhà nước cho thuê.
C) Giá trị rừng trồng do chủ rừng tự đầu tư trên đất Nhà nước giao hoặc cho thuê có thể được sử dụng làm tài sản thế chấp, bảo lãnh và góp vốn.
D) Trong trường hợp của rừng tự nhiên được giao hoặc cho thuê, rừng chỉ có thể được thế chấp, bảo lãnh hoặc góp thêm giá trị quyền sử dụng rừng khi chủ sở hữu rừng đầu tư vào nâng cao giá trị quyền sử dụng rừng so với giá trị quyền sử dụng rừng được xác định từ lúc rừng được giao hoặc cho thuê.
Việc thế chấp và bảo lãnh chỉ có thể thực hiện tại các tổ chức tín dụng hợp pháp tại Việt Nam. Ngoài ra, cũng có thể góp vốn từ tổ chức, hộ gia đình và cá nhân trong nước, cũng như từ người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
6. Về di sản:
A) Quyền sử dụng rừng bảo vệ, rừng kinh doanh do Nhà nước giao theo quy định về thừa kế.
B) Rừng trồng được thừa kế từ việc cá nhân tự đầu tư trên đất do Nhà nước giao, và được cho thuê theo quy định của pháp luật về thừa kế.
Việc chuyển đổi mục đích sử dụng rừng phòng hộ cần có căn cứ. Nếu rừng phòng hộ chưa được chuyển sang mục đích sản xuất, việc chuyển nhượng rừng của bạn sẽ tuân theo quy định sau: Rừng phòng hộ nhà nước được chuyển đổi quyền sử dụng nhưng không được phép chuyển nhượng. Rừng sản xuất bao gồm rừng trồng do nhà nước giao và rừng trồng bằng vốn ngân sách nhà nước đầu tư trên đất Nhà nước giao hoặc cho thuê để trồng rừng, nhưng phải hoàn trả giá trị Nhà nước đã đầu tư. Vì vậy, việc bạn chuyển nhượng rừng phòng hộ là sai quy định.
Theo quy định của Điều 191 Luật đất đai năm 2013:
“Theo điều 191, trong trường hợp không được phép chuyển nhượng hoặc tặng quyền sử dụng đất.
Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không có quyền chuyển nhượng hoặc tặng cho quyền sử dụng đất trong trường hợp pháp luật không cho phép.
2. Các tổ chức kinh tế không có quyền chuyển nhượng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ và đất rừng đặc dụng của hộ gia đình và cá nhân, trừ khi có sự phê duyệt từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất.
3. Nông nghiệp không cho phép hộ gia đình và cá nhân chuyển nhượng hoặc nhận tặng quyền sử dụng đất trồng lúa trực tiếp.
4. Hộ gia đình và cá nhân không được chuyển nhượng hoặc tặng quyền sử dụng đất ở hoặc đất nông nghiệp trong các khu vực rừng phòng hộ, khu vực bảo vệ nghiêm ngặt và khu vực phục hồi sinh thái thuộc rừng đặc dụng. Điều này áp dụng cho những người không sinh sống trong các khu vực rừng phòng hộ hoặc rừng đặc dụng đó.
Luật sư tư vấn pháp luật chuyển nhượng quyền sử dụng đất: 1900.6568.
Theo Điều 2 Luật đất đai 2013, được quy định như sau:
“Điều 192. Trong trường hợp gia đình, cá nhân chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất có điều kiện.
2. Nhà nước giao đất ở và đất sản xuất nông nghiệp trong khu vực rừng phòng hộ cho hộ gia đình và cá nhân. Chỉ có thể chuyển nhượng hoặc tặng quyền sử dụng đất ở và đất sản xuất nông nghiệp cho hộ gia đình và cá nhân đang sinh sống trong khu vực rừng phòng hộ đó.
Theo thông tin mà bạn trình bày và theo quy định tại trên hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất ở, đất sản xuất nông nghiệp trong khu vực rừng phòng hộ thì chỉ được chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất ở, đất sản xuất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân đang sinh sống trong khu vực rừng phòng hộ đó. Do đó, việc cán bộ kiểm lầm trình bày là có căn cứ pháp lý.